Tuesday, July 6, 2010

Dòng Thơ Diễm Tình của Lý Thương Ẩn

Trong vườn thơ Ðường Thi, nhà thơ Lý Thương Ẩn, sinh thời mạt Ðường, đứng riêng một phương trời thơ với dòng diễm tình thi. Thơ của ông, từ điệu du dương, nhiều điển tích, hình ảnh đẹp, xử dụng triệt để nghĩa bóng, nên lời thơ rất cô đọng và gợi ý. Sáu bài thơ vô đề của ông là những thi tình phẩm tuyệt vời . Tương truyền thuở trẻ ông học đạo trên núi, theo phép tu tiên, và yêu một nàng đạo sĩ nhưng mối tình gặp nhiều trắc trở, rồi sau đó ông lại quen và thương hai chị em tên Phi Loan, Khinh Phụng, chỉ hận là hai nàng lại bị tuyển vào cung đình. Những cuộc tình dang dở này có lẽ là nguồn gốc của những bài thơ vô đề . Với những vần thơ tuyệt đẹp, tình ý tha thiết, đượm nét ảo huyền, thơ của ông trở thành bất hủ, và được chuyển dịch qua nhiều thứ tiếng : Anh, Pháp, Ðức, Ý, v.v.

Có một câu thơ rất hay “Con tằm dẫu thác hãy còn vương tơ” mà người viết đã nhập tâm không biết tự thuở nào. Nghe như một câu ca dao và không chừng cũng đã là ca dao. Câu thơ ấy vốn xuất xứ từ một vần thơ trong một bài “Vô đề” của Lý Thương Ẩn. Bài ấy như sau :

Vô đề ( Kỳ ba )

Tương kiến thì nan biệt diệc nan
Ðông phong vô lực bách hoa tàn
Xuân tàm đáo tử, ti phương tận
Lạp chúc thành hôi, lệ thủy can
Hiểu kính, đãn sầu vân mấn cải
Dạ ngâm, ưng giác nguyệt quang hàn
Bồng Lai thử khứ vô đa lộ
Thanh điểu ân cần vị thám khan

Dịch nghĩa:

1. Gặp nhau khó, xa nhau cũng khó
2. Gió xuân không đủ sức để trăm hoa úa tàn
3. Tằm xuân đến chết, tơ mới hết
4. Ngọn nến thành tro, lệ mới khô
5. Sáng sớm soi gương, buồn cho tóc mây thay đổi
6. Ðêm ngâm thơ, chợt nhận thấy ánh trăng là lạnh lẽo
7. Bồng Lai tìm đến nhưng không nhiều lối. (Chỉ thấy một hai lối vô, mà bị các bậc trưởng bối của nàng chặn cửa mất rồi ).
8. Chim xanh hãy vì ta mà ân cần thăm dò

Vương-Thanh dịch:

Gặp gỡ khó, xa nhau càng khó
Gió Xuân đâu ? Ðể úa hoa mơ
Con tằm đến chết, tơ chưa dứt
Ngọn nến thành tro, lệ mới khô
Sáng sớm, gương soi, buồn tóc bạc
Ðêm khuya, thơ đọc, lạnh trăng mờ
Non Bồng tìm mãi không ra lối
Nhờ cánh chim xanh kiếm giúp cho


Lý Thương Ẩn sở trường về luật thi. Ða số những bài thơ của ông là đường luật, phần còn lại theo thể tứ tuyệt và ngũ ngôn. Sau đây là một bài thơ tứ tuyệt nổi tiếng của ông:

Thường Nga (tên khác của Hằng Nga)

Vân mẫu bình phong chúc ảnh thâm
Trường hà tiệm lạc, hiểu tinh trầm
Thường Nga ưng hối thâu linh dược
Bích hải thanh thiên dạ dạ tâm

Người viết rất thích câu cuối trong bài này. Câu “Bích hải thanh thiên dạ dạ tâm” đọc lên, nghe âm điệu vừa mạnh mẽ, tình ý lại triền miên. Sau đây, xin giới thiệu bài Vô Ðề kỳ một của ông.

Vô đề ( Kỳ một )

Lai thị không ngôn khứ tuyệt tung
Nguyệt tà lâu thượng ngũ canh chung
Mộng vi viễn biệt đề nan hoán
Thư bị thôi thành mặc vị nùng
Lạp chiếu bán lung kim phỉ thuý
Xạ huân vi độ tú phù dung
Lưu lang dĩ hận Bồng sơn viễn
Cánh cách Bồng sơn nhất vạn trùng

Dịch nghĩa :

1. Ðến thì không nói, đi thì biệt tích
2. Trên lầu, trăng xế, chuông điểm canh năm
3. Trong mộng xa cách nhau, kêu khó thành tiếng
4. Thư giục mau xong, mực còn chưa đậm.
5. Ánh nến mờ soi con chim trả bằng đồng
6. Mùi xạ hương thoang thoảng trên (vải, màn, lụa, ... (thơ không nói rõ ) được thêu hoa sen
7. Chàng Lưu hận non Bồng xa xôi
8. Nay ta lại cách non Bồng một vạn tầng

Vương-Thanh dịch:

Gặp nhau, chỉ nói vu vơ
Ra đi biền biệt, mịt mù tăm hơi
Trăng tà, gác vắng chờ Người
Canh năm đã điểm, ôi lời hứa suông !
Trong mơ, xa cách nghìn trùng
Mộng khôn thành tiếng, lòng buồn không thôi
Thư tình ai vội đôi lời
Chữ chưa ráo mực, bóng người phương nao
Nến soi cánh phụng nghiêng chào
Mùi hương còn thoảng lụa đào thêu sen
Chàng Lưu thương tiếc non tiên
Bồng sơn nay lại vạn triền núi xa ...

Câu “Lai thị không ngôn, khứ tuyệt tung” dịch xuôi là “Khi đến, thì không nói; khi đi lại đi biệt tích”. Theo ý người viết thì không phải là không nói gì cả, không phải là ‘ngậm miệng làm thinh’, mà là nàng chỉ nói chuyện vu vơ, không nói vào đề tài chính giữa hai người. Dựa ý theo câu thứ nhì, câu đầu thực ra chỉ là câu than thở, trách móc khi nàng thất hẹn và nhà thơ đa tình của chúng ta phải chờ đợi suốt năm canh.

Sự cô đọng của thơ, và đặc biệt là Hán thi, thường tạo ra những giải nghĩa khác nhau hoặc là không giống nhau hoàn toàn. Sự chắt lọc của ngôn từ, lọc bỏ hết rườm rà hoa lá, chỉ giữ lại cốt tủy, có thể gợi cho người đọc nhiều ý tưởng mới lạ trong khi chuyển dịch thơ. Ðó cũng là một sắc thái độc đáo của Ðường Thi.

Lý Thương Ẩn có sáu bài Vô Ðề cả thảy, được phân biệt thành sáu kỳ. Thứ tự sắp xếp, người viết dựa theo quyển sách “Ðường Thi Tuyển Dịch” của ông Lê Nguyễn Lưu. Nay xin đề cập đến hai câu thơ “vô đề” nữa. Hai câu này là hai câu cuối của bài “Kỳ hai” và gợi sự liên tưởng cho người viết đến một câu thơ rất quen thuộc của Xuân Diệu: “Yêu là chết ở trong lòng một ít, cho thì nhiều nhưng chẳng nhận bao nhiêu”. Hai câu thơ ấy như sau:

Xuân tâm mạc cộng hoa tranh phát
Nhất thốn tương tư nhất thốn hôi

Vương-Thanh dịch:

Lòng xuân đâu với hoa đua nở
Một tấc tương tư, một tấc tro

Nỗi đau khổ của sự tương tư, tả như thế, theo ý người viết, thì quả là tuyệt bút. Chỉ dùng bảy chữ thôi, mà rất gợi hình, gợi ý, sắc nét như dao. Bây giờ xin giới thiệu một bài thơ được coi là bí ẩn vào bậc nhất trong vườn thơ Ðường Thi mà thi hào Nguyễn Du đã dịch mấy câu trong truyện Kiều như sau:

Khúc đâu đầm ấm dương hòa
Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh
Khúc đâu êm ái xuân tình
Ấy hồn Thục đế hay mình đỗ quyên
Trong như ngọc dỏ duềnh quyên
Ấm như hạt ngọc Lam Ðiền mới đông...

Những câu thơ trên tả tiếng đàn của Thúy Kiều trong ngày sum họp với Kim Trọng sau mười sáu năm xa cách. Tình ý vui vẻ không giống như nguyên tác đượm nét u hoài. Có lẽ Nguyễn Du muốn nói lên cái ý “tẻ vui cũng tại lòng này”. Vì cùng một bản nhạc ấy, mà trước kia khi nghe Kiều dạo đàn, Kim Trọng đã phải than rằng : “Rằng hay thì thật là hay, nghe vô ngậm đắng nuốt cay thế nào”. Sau đây là nguyên tác của khúc đàn đó:

Cẩm Sắt

Cẩm sắt vô đoan ngũ thập huyền
Nhất huyền nhất trụ tứ hoa niên
Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp
Vọng đế xuân tâm ký đỗ quyên
Thương hải, nguyệt minh châu hữu lệ
Lam Ðiền, nhật noãn ngọc sinh yên
Thử tình khả đãi thành truy ức
Chỉ thị đương thời dĩ võng nhiên


Dịch nghĩa :

1. Ðàn gấm vì sao lại năm mươi dây
2. Mỗi dây mỗi trục nhớ thời tuổi trẻ
3. Trang sinh trong giấc mộng sớm, hóa thành cánh bướm
4. Tấm lòng xuân của vua Thục đế sống lại trong tiếng hót của chim quyên
5. Biển rộng, trăng sáng, hạt châu long lanh nước mắt
6. Lam Ðiền, ngày nắng ấm, ngọc bốc khói
7. Mối tình này có thể trở thành một kỷ niệm đẹp (để ta thường hoài niệm )
8. Chỉ tiếc là thuở ấy ta quá buồn rầu, chán nản


Bản dịch của học giả Lê Nguyễn Lưu :

Ðàn gấm gồm năm chục sợi liền
Mỗi dây mỗi trụ nhớ hoa niên
Trang sinh mộng sớm ngờ thân bướm
Vọng đế lòng xuân gửi tiếng quyên
Trăng sáng lệ đàn châu Ðại Hải
Nắng xông ngọc bốc khói Lam Ðiền
Tình xưa hãy để thành lưu niệm
Một thủa yêu đương luống hão huyền !


Bản dịch của học giả Trần Trọng San :
Nguồn từ mạng lưới Internet)

Năm chục dây trên những phím đàn
Mỗi dây, mỗi trụ nhớ hoa niên
Trang sinh mộng sớm làm bươm bướm
Thục đế lòng xuân gửi đỗ quyên
Trăng chiếu lệ châu, ngời bể rộng
Nắng phơi khói ngọc, ấm Lam Ðiền
Tình này hãy đợi nên niềm nhớ
Tiếc đã xưa kia lỗi ước nguyền


Vương-Thanh dịch:

Ðàn gấm, năm mươi sợi ảo huyền
Từng dây, từng trục gọi hoa niên
Trang sinh, mộng sớm mơ hồn bướm
Thục đế, lòng xuân gửi tiếng quyên (1)
Trăng sáng, lệ châu nhòa Bích Hải
Nắng hanh, khói ngọc tỏa Lam Ðiền
Tình này ôn lại còn thương cảm
Một thuở đau lòng chữ nợ duyên


Dịch bài "Cẩm Sắt" theo thể đường luật ắt phải dùng vần "niên" vì cần phải dùng chữ "hoa niên", "quyên", "Lam Ðiền" trong bản dịch ở cuối câu. Trong khuôn khổ thơ đường luật lại dùng cùng một vần , và dựa theo ý, từ, và kiến trúc của câu thơ trong nguyên tác, thì sự giống nhau trong một số câu trong các bản dịch là chuyện tự nhiên, khó thể tránh khỏi.

Ðàn thuở ấy chỉ có hai mươi lăm dây, năm mươi tuổi xuân thì lại là quá dài, cho nên chỉ hai câu đầu đã là đề tài bàn luận khó mà đưa đến một giải nghĩa thỏa mãn mọi người. Câu thứ năm “châu hữu lệ” dùng điển tích thần thoại những nàng người cá ở Nam Hải, khi khóc, những giọt nước mắt kết đọng thành hạt châu. Câu thứ sáu là một đề tài để bàn luận, suy gẫm. Lam điền nên hiểu theo nghĩa “ruộng xanh” hay nên hiểu theo nghĩa một địa danh ? Lam Ðiền cũng là tên một nơi chuyên sản xuất ngọc. Còn ngọc bốc khói lại là như thế nào.

Nếu hiểu theo nghĩa “ruộng xanh” thì câu sáu có thể giải thích như saụ. Nắng ấm buổi sớm, những giọt sương lóng lánh như ngọc trên ruộng xanh bốc lên thành khói. Tuy nhiên trong thơ, hạt châu đã có thể kết đọng từ nước mắt, thì ngọc bốc khói cũng có thể là từ một điển tích nào đó mà thôi.

Theo thiển ý người viết, tác giả mượn tiếng đàn để tả về mối tình với một thiếu nữ. Chàng thì đa tình như Thục Ðế còn nàng thì mơ mộng như một Lâm Ðại Ngọc khóc hoa rơi, với đôi mắt sâu thăm thẳm như biển cả, long lanh những giọt châu lệ của những nàng tiên người cá khi xa cách người yêu. Tiếc là mối tình tuy đẹp như huyền thoại, nhưng lại mong manh như khói ngọc Lam Ðiền, để cho thi nhân ôm một mối hận lòng, và để lại cho ngàn sau những vần thơ diễm tuyệt.


Vương Thanh
tháng tư năm 2005

(1) Vua nước Thục, khi ái thê qua đời, vì quá đau buồn nên bỏ ngôi mà đi. Tương truyền, sau khi thác đi, hóa thành chim đỗ quyên, có tiếng kêu rất bi thương.

Tài liệu tham khảo :

1. Ðường Thi Tuyển Dịch của Lê Nguyễn Lưu
2. www.maihoatrang.com
3. Từ Ðiển Hán Việt của Trần Văn Chánh biên soạn
4. Từ Ðiển Thiều-Chửu trên mạng lưới Internet

No comments: